Căng thẳng là gì? Các công bố khoa học về Căng thẳng
Căng thẳng là phản ứng sinh lý tự nhiên trước áp lực, có thể chia thành căng thẳng cấp tính và mãn tính. Căng thẳng cấp tính là ngắn hạn, thường gặp trong các tình huống như thi cử và có thể có lợi, trong khi căng thẳng mãn tính kéo dài dẫn đến suy giảm sức khỏe. Nguyên nhân gây căng thẳng bao gồm công việc, tài chính, mối quan hệ và biến đổi cuộc sống. Tác động của căng thẳng tác động tiêu cực đến sức khỏe thể chất và tinh thần. Để giảm thiểu, người ta có thể tập thể dục, thực hành thư giãn, quản lý thời gian, và tâm sự với người khác.
Giới Thiệu Về Căng Thẳng
Căng thẳng là phản ứng sinh lý tự nhiên của cơ thể trước các áp lực từ môi trường xung quanh. Nó có thể là phản ứng ngắn hạn khi đối mặt với các thách thức hoặc mối nguy hiểm, nhưng cũng có thể chuyển thành căng thẳng dài hạn với những tác động tiêu cực đến sức khỏe và tinh thần.
Các Loại Căng Thẳng
Căng thẳng có thể được chia thành hai loại chính: căng thẳng cấp tính và căng thẳng mãn tính.
- Căng thẳng cấp tính: Là phản ứng ngắn hạn mà cơ thể thường trải qua khi gặp phải những tình huống nhất định như thi cử, phát biểu trước công chúng, hoặc khi gặp nguy hiểm. Căng thẳng cấp tính có thể mang lại lợi ích, giúp con người nhanh hơn, mạnh mẽ hơn và đối phó với tình huống tốt hơn.
- Căng thẳng mãn tính: Xảy ra khi con người phải đương đầu với áp lực trong một thời gian dài, chẳng hạn như công việc căng thẳng, vấn đề tài chính, hoặc mối quan hệ rạn nứt. Căng thẳng mãn tính gây ra rất nhiều tác hại đến sức khỏe thể chất và tinh thần.
Nguyên Nhân Gây Ra Căng Thẳng
Căng thẳng có thể phát sinh từ nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm:
- Công việc: Áp lực công việc, khối lượng công việc quá nhiều hoặc không an toàn về công việc.
- Tài chính: Áp lực từ các khoản nợ, chi tiêu vượt quá khả năng hoặc mất việc làm.
- Mối quan hệ: Xung đột với người thân, bạn bè hoặc đồng nghiệp.
- Thay đổi lớn trong cuộc sống: Chuyển nhà, ly hôn, hoặc mất người thân.
Tác Động Của Căng Thẳng Đến Sức Khỏe
Căng thẳng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe theo nhiều cách khác nhau:
- Sức khỏe thể chất: Tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, giảm khả năng miễn dịch, gây ra các vấn đề tiêu hóa.
- Sức khỏe tinh thần: Làm tăng nguy cơ mắc chứng trầm cảm, lo âu, rối loạn giấc ngủ và khó tập trung.
Cách Giảm Thiểu Căng Thẳng
Để quản lý và giảm thiểu căng thẳng hiệu quả, bạn có thể áp dụng một số phương pháp sau:
- Luyện tập thể dục thường xuyên: Tập thể dục giúp cơ thể giải phóng endorphin, tạo cảm giác thư giãn và hạnh phúc.
- Kỹ thuật thư giãn: Thực hành yoga, thiền, hoặc hít thở sâu để thư giãn cơ thể và tâm trí.
- Quản lý thời gian: Lên kế hoạch công việc và sử dụng thời gian hợp lý để giảm bớt áp lực.
- Tâm sự với người khác: Chia sẻ với bạn bè hoặc nhà tư vấn để giải tỏa căng thẳng và tìm kiếm sự hỗ trợ.
Kết Luận
Căng thẳng, nếu không được quản lý tốt, có thể gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe và chất lượng cuộc sống. Hiểu về các nguyên nhân, dấu hiệu và biện pháp đối phó có thể giúp bạn kiểm soát căng thẳng hiệu quả hơn, góp phần duy trì một cuộc sống cân bằng và hạnh phúc.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "căng thẳng":
Nền tảng: Dịch bệnh vi-rút corona 2019 (COVID-19) là một tình trạng khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng mang tính quốc tế và đặt ra thách thức cho khả năng phục hồi tâm lý. Cần có dữ liệu nghiên cứu để phát triển các chiến lược dựa trên bằng chứng nhằm giảm thiểu các tác động tâm lý bất lợi và triệu chứng tâm thần trong suốt dịch bệnh. Mục tiêu của nghiên cứu này là khảo sát công chúng tại Trung Quốc để hiểu rõ hơn mức độ tác động tâm lý, lo âu, trầm cảm và căng thẳng của họ trong giai đoạn đầu của dịch bệnh COVID-19 bùng phát. Dữ liệu này sẽ được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho tương lai. Phương pháp: Từ ngày 31 tháng 1 đến ngày 2 tháng 2 năm 2020, chúng tôi đã thực hiện một cuộc khảo sát trực tuyến sử dụng kỹ thuật lấy mẫu quả cầu tuyết. Cuộc khảo sát trực tuyến thu thập thông tin về dữ liệu nhân khẩu học, các triệu chứng thể chất trong vòng 14 ngày qua, lịch sử tiếp xúc với COVID-19, hiểu biết và lo lắng về COVID-19, các biện pháp phòng ngừa COVID-19 và thông tin bổ sung cần có liên quan đến COVID-19. Tác động tâm lý được đánh giá bằng thang đo Impact of Event Scale-Revised (IES-R), và trạng thái sức khỏe tâm thần được đánh giá bằng thang đo Depression, Anxiety and Stress Scale (DASS-21). Kết quả: Nghiên cứu này bao gồm 1210 người tham gia từ 194 thành phố tại Trung Quốc. Tổng cộng, 53.8% người tham gia đánh giá tác động tâm lý của đợt bùng phát là trung bình hoặc nghiêm trọng; 16.5% báo cáo triệu chứng trầm cảm từ trung bình đến nghiêm trọng; 28.8% báo cáo triệu chứng lo âu từ trung bình đến nghiêm trọng; và 8.1% báo cáo mức độ căng thẳng trung bình đến nghiêm trọng. Hầu hết những người tham gia dành từ 20 đến 24 giờ mỗi ngày tại nhà (84.7%); lo lắng về việc thành viên gia đình bị nhiễm COVID-19 (75.2%); và hài lòng với lượng thông tin sức khỏe có sẵn (75.1%). Giới tính nữ, là sinh viên, có các triệu chứng thể chất cụ thể (ví dụ, nhức mỏi, chóng mặt, nghẹt mũi), và tình trạng sức khỏe tự đánh giá kém có mối liên hệ đáng kể với tác động tâm lý lớn hơn của đợt bùng phát và mức độ căng thẳng, lo âu và trầm cảm cao hơn (p < 0.05). Thông tin sức khỏe cập nhật và chính xác (ví dụ, điều trị, tình hình bùng phát cục bộ) và các biện pháp phòng ngừa cụ thể (ví dụ, vệ sinh tay, đeo khẩu trang) có liên quan đến tác động tâm lý thấp hơn của đợt bùng phát và mức độ căng thẳng, lo âu và trầm cảm thấp hơn (p < 0.05). Kết luận: Trong giai đoạn đầu của sự bùng phát dịch COVID-19 tại Trung Quốc, hơn một nửa số người tham gia đánh giá tác động tâm lý là từ trung bình đến nghiêm trọng, và khoảng một phần ba báo cáo lo âu từ mức trung bình đến nghiêm trọng. Phát hiện của chúng tôi xác định các yếu tố liên quan đến mức độ tác động tâm lý thấp hơn và trạng thái sức khỏe tâm thần tốt hơn có thể được sử dụng để xây dựng các can thiệp tâm lý nhằm cải thiện sức khỏe tâm thần của các nhóm dễ bị tổn thương trong thời kỳ dịch COVID-19.
Trong một nghiên cứu theo dõi dài hạn có tính toán, trên một nhóm sinh ra đại diện, chúng tôi đã kiểm tra lý do tại sao những trải nghiệm căng thẳng lại dẫn đến trầm cảm ở một số người nhưng không ở những người khác. Một đột biến chức năng trong vùng khởi động của gen vận chuyển serotonin (5-HT T) đã được phát hiện là có tác động điều tiết ảnh hưởng của các sự kiện trong cuộc sống căng thẳng lên trầm cảm. Những cá nhân có một hoặc hai bản sao của alen ngắn của đột biến khởi động 5-HT T thể hiện nhiều triệu chứng trầm cảm hơn, trầm cảm có thể chẩn đoán, và mong muốn tự sát liên quan đến các sự kiện căng thẳng trong cuộc sống hơn là những cá nhân đồng hợp tử cho alen dài. Do đó, nghiên cứu dịch tễ học này cung cấp bằng chứng về sự tương tác giữa gen và môi trường, trong đó phản ứng của cá nhân đối với các tổn thương môi trường được điều tiết bởi cấu trúc di truyền của họ.
Lý thuyết Bảo tồn Tài nguyên (COR) dự đoán rằng việc mất tài nguyên là yếu tố chính trong quá trình căng thẳng. Việc thu được tài nguyên được mô tả là ngày càng quan trọng trong bối cảnh mất mát. Bởi vì tài nguyên cũng được sử dụng để ngăn chặn sự mất mát tài nguyên, ở mỗi giai đoạn của quá trình căng thẳng, con người sẽ ngày càng dễ bị tổn thương trước những hậu quả tiêu cực của căng thẳng, nếu diễn ra lâu dài sẽ dẫn đến những vòng xoáy mất mát nhanh chóng và nghiêm trọng. Lý thuyết COR được coi là một sự thay thế cho các lý thuyết căng thẳng dựa trên đánh giá vì nó dựa nhiều hơn vào bản chất khách quan và được xây dựng văn hóa của môi trường trong việc xác định quá trình căng thẳng, thay vì cách hiểu cá nhân của từng người. Lý thuyết COR đã được áp dụng thành công trong việc dự đoán một loạt các kết quả liên quan đến căng thẳng trong môi trường tổ chức, bối cảnh sức khỏe, sau khi trải qua căng thẳng chấn thương, và đối mặt với các yếu tố căng thẳng hàng ngày. Những tiến bộ gần đây trong việc hiểu biết về cơ sở sinh học, nhận thức và xã hội của phản ứng căng thẳng được xem là nhất quán với cách hình thành ban đầu của lý thuyết COR, nhưng kêu gọi việc hình dung lý thuyết COR và quá trình căng thẳng trong một bối cảnh tập thể hơn so với những gì đã được đề xuất ban đầu. Vai trò của việc mất tài nguyên và sự thu được tài nguyên trong việc dự đoán các kết quả tích cực của căng thẳng cũng được xem xét. Cuối cùng, các hạn chế và ứng dụng của lý thuyết COR được thảo luận.
Một phần đáng kể những điều bí ẩn liên quan đến sự kéo dài của vết nứt có thể được loại bỏ nếu mô tả các thí nghiệm về sự gãy có thể bao gồm một ước lượng hợp lý về các điều kiện căng thẳng gần đầu vết nứt, đặc biệt tại các điểm khởi phát gãy nhanh và tại các điểm ngăn chặn gãy. Đáng chú ý rằng đối với các gãy kéo giòn trong những tình huống mà phân tích ứng suất mặt phẳng tổng quát hoặc biến dạng mặt phẳng là phù hợp, ảnh hưởng của cấu hình thí nghiệm, lực tải và chiều dài vết nứt lên các ứng suất gần đầu vết nứt có thể được biểu thị bằng hai tham số. Một trong số đó là ứng suất đồng nhất có thể điều chỉnh song song với hướng kéo dài của vết nứt. Nó được chứng minh rằng tham số còn lại, được gọi là hệ số cường độ ứng suất, tỷ lệ với căn bậc hai của lực có xu hướng gây ra sự kéo dài của vết nứt. Cả hai yếu tố này đều có cách giải thích rõ ràng và lĩnh vực ứng dụng trong các nghiên cứu về cơ học gãy giòn.
Căng thẳng oxy hóa đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của các biến chứng liên quan đến bệnh tiểu đường, cả ở mức vi mạch và tim mạch. Các bất thường chuyển hóa trong bệnh tiểu đường gây ra tình trạng sản xuất superoxide quá mức trong các tế bào nội mô của cả mạch lớn và mạch nhỏ, cũng như trong mô tim. Việc tăng cường sản xuất superoxide này kích hoạt 5 con đường chính liên quan đến sinh bệnh học của các biến chứng: dòng chảy của con đường polyol, sự hình thành AGEs (sản phẩm glycation tiên tiến) tăng lên, sự biểu hiện của thụ thể cho AGEs và các ligand kích hoạt của nó tăng lên, kích hoạt các isoform protein kinase C, và hoạt động quá mức của con đường hexosamine. Nó cũng trực tiếp làm bất hoạt 2 enzyme chống xơ vữa động mạch quan trọng, synthase nitric oxide nội mô và synthase prostacyclin. Qua những con đường này, việc tăng cường các loài oxy phản ứng (ROS) nội bào gây ra sự thiếu hụt tân sinh mạch máu đáp ứng với tình trạng thiếu máu, kích hoạt một số con đường tiền viêm, và gây ra các thay đổi di truyền kéo dài làm thúc đẩy sự biểu hiện kéo dài của các gen tiền viêm sau khi glucose huyết được bình thường hóa (“ký ức tăng glucose”). Xơ vữa động mạch và bệnh cơ tim trong bệnh tiểu đường loại 2 một phần do kháng insulin chọn lọc theo con đường, làm tăng sản xuất ROS ti thể từ axit béo tự do và do sự bất hoạt enzyme chống xơ vữa động mạch bởi ROS. Sự biểu hiện quá mức của superoxide dismutase ở chuột tiểu đường chuyển gen ngăn ngừa bệnh võng mạc tiểu đường, bệnh thận và bệnh cơ tim. Mục đích của bài tổng quan này là làm nổi bật những tiến bộ trong việc hiểu rõ vai trò của ROS được tạo ra từ chuyển hóa trong sự phát triển của các biến chứng tiểu đường.
Mục tiêu. Kiểm tra tính giá trị cấu trúc của phiên bản rút gọn của thang đánh giá trầm cảm, lo âu và căng thẳng (DASS-21), đặc biệt đánh giá xem căng thẳng theo chỉ số này có đồng nghĩa với tính cảm xúc tiêu cực (NA) hay không hay nó đại diện cho một cấu trúc liên quan nhưng khác biệt. Cung cấp dữ liệu chuẩn hóa cho dân số trưởng thành nói chung.
Thiết kế. Phân tích cắt ngang, tương quan và phân tích yếu tố xác nhận (CFA).
Phương pháp. DASS-21 được áp dụng cho một mẫu không có bệnh lý, đại diện rộng cho dân số trưởng thành tại Vương quốc Anh (
Kết quả. Mô hình có sự phù hợp tối ưu (RCFI = 0.94) có cấu trúc tứ phương, bao gồm một yếu tố chung của rối loạn tâm lý cộng với các yếu tố cụ thể vuông góc của trầm cảm, lo âu, và căng thẳng. Mô hình này có sự phù hợp tốt hơn đáng kể so với mô hình cạnh tranh kiểm tra khả năng rằng thang đo Stress chỉ đơn giản đo NA.
Kết luận. Các thang đo phụ DASS-21 có thể được sử dụng hợp lệ để đo lường các khía cạnh của trầm cảm, lo âu và căng thẳng. Tuy nhiên, mỗi thang đo phụ này cũng chạm đến một khía cạnh chung hơn của rối loạn tâm lý hoặc NA. Sự tiện ích của thang đo được nâng cao nhờ có dữ liệu chuẩn hóa dựa trên một mẫu lớn.
Vi tảo đại diện cho một nhóm vi sinh vật vô cùng đa dạng nhưng có khả năng chuyên môn hóa cao để thích nghi với các môi trường sinh thái khác nhau. Nhiều loài vi tảo có khả năng sản xuất một lượng đáng kể (ví dụ: 20–50% trọng lượng khô tế bào) triacylglycerols (TAG) như một loại lipid dự trữ dưới căng thẳng quang hóa hay các điều kiện môi trường bất lợi khác. Axit béo, thành phần cấu thành của TAGs và tất cả các lipid tế bào khác, được tổng hợp trong lục lạp bằng một tập hợp duy nhất của enzyme, trong đó acetyl CoA carboxylase (ACCase) là yếu tố chính điều chỉnh tỷ lệ tổng hợp axit béo. Tuy nhiên, sự biểu hiện của các gene liên quan đến quá trình tổng hợp axit béo vẫn chưa được hiểu rõ ở vi tảo. Sự tổng hợp và phân tách TAG vào các thể lipid bào tương dường như là cơ chế bảo vệ mà các tế bào tảo sử dụng để ứng phó với các điều kiện căng thẳng, nhưng ít được biết về việc điều chỉnh sự hình thành TAG ở mức độ phân tử và tế bào. Trong khi khái niệm sử dụng vi tảo như một nguồn nguyên liệu sinh khối giàu lipid thay thế và tái tạo cho nhiên liệu sinh học đã được khám phá trong vài thập kỷ qua, hệ thống có thể mở rộng và khả thi về kinh tế vẫn chưa hình thành. Hiện nay, việc sản xuất dầu tảo chủ yếu giới hạn ở các loại dầu chất lượng cao có giá trị dinh dưỡng hơn là các loại dầu hàng hóa cho nhiên liệu sinh học. Bài đánh giá này cung cấp tóm tắt ngắn gọn về kiến thức hiện tại của vi tảo giàu dầu và quá trình tổng hợp axit béo và TAG của chúng, các hệ thống mô hình tảo và cách tiếp cận gen để hiểu rõ hơn việc sản xuất TAG, cũng như cái nhìn lịch sử và hướng đi cho nghiên cứu và thương mại hóa nhiên liệu sinh học dựa trên vi tảo.
Các biến thể trong chăm sóc của mẹ ảnh hưởng đến sự phát triển của sự khác biệt cá nhân trong các phản ứng neuroendocrine đối với căng thẳng ở chuột. Khi trưởng thành, con của những bà mẹ biểu hiện nhiều hành vi liếm và chải chuốt cho con non hơn trong 10 ngày đầu đời cho thấy sự giảm đáp ứng của hormone adrenocorticotropic và corticosterone trong huyết tương đối với căng thẳng cấp tính, tăng biểu hiện mRNA thụ thể glucocorticoid ở hippocampal, tăng độ nhạy cảm với điều hòa ngược glucocorticoid, và giảm mức mRNA hormone cortisol-releasing của hypothalamus. Mỗi chỉ số đều có sự tương quan đáng kể với tần suất liếm và chải chuốt của mẹ (tất cả các giá trị
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10